So sánh văn hóa quốc gia giữa Việt Nam và Nhật Bản
Nếu chúng ta khám phá Nhật Bản qua lăng kính văn hóa xã hội và con người, chúng ta có thể có được một cái nhìn tổng quan và sâu sắc về văn hóa Nhật Bản rất khác biệt so với các nền văn hóa thế giới khác. Đặc biệt là Việt Nam, tuy cùng chung châu lục các lịch sử văn hóa cũng có nhiều điểm giao thoa, tuy nhiên sự khác biệt vẫn là rất lớn.
Dưới đây là 6 yếu tố so sánh về văn hóa quốc gia giữa Việt Nam và Nhật Bản được trang web hofstede-insights.com thực hiện (Geert Hofstede, nhà nhân chủng học nổi tiếng người Hà Lan, đã tiến hành một trong những nghiên cứu đầu tiên dựa trên quan sát thực nghiệm về các đặc điểm văn hoá quốc gia.)
Nguồn: hofstede-insights.com
1. Khoảng cách quyền lực
Yếu tố này liên quan đến thực tế là tất cả các cá nhân trong xã hội không bình đẳng - nó thể hiện thái độ của văn hóa đối với những bất bình đẳng giữa chúng ta. Khoảng cách quyền lực là cách một xã hội ứng xử với sự bất bình đẳng về quyền lực giữa con người trong xã hội. Một xã hội có sự chênh lệch về quyền lực lớn có nghĩa là mức độ bất bình đẳng tương đối cao và luôn tăng lên theo thời gian.
Nhật bản với số điểm trung bình là 54, là một xã hội phân cấp biên giới. Vâng, người Nhật luôn ý thức về vị trí phân cấp của họ trong bất kỳ môi trường xã hội nào và hành động tương ứng. Tuy nhiên, nó không phân cấp như hầu hết các nền văn hóa châu Á khác. Một số người nước ngoài trải nghiệm Nhật Bản cực kỳ phân cấp vì kinh nghiệm kinh doanh của họ về quá trình ra quyết định chậm chạp: tất cả các quyết định phải được xác nhận bởi mỗi lớp phân cấp và cuối cùng là quản lý cấp cao ở Tokyo.
Việt Nam đạt điểm cao về chiều này (điểm 70), điều đó có nghĩa là mọi người chấp nhận một trật tự thứ bậc trong đó mọi người đều có một vị trí và không cần biện minh thêm. Hệ thống phân cấp trong một tổ chức được coi là phản ánh sự bất bình đẳng vốn có, tập trung hóa là phổ biến, cấp dưới mong muốn được nói phải làm gì và ông chủ lý tưởng là một người chuyên quyền nhân từ. Những thách thức đối với các nhà lãnh đạo không được đón nhận.
2. Chủ nghĩa cá nhân
Chủ nghĩa cá nhân hay là sự đề cao tính cá nhân và tính tập thể trong một quốc gia, một xã hội. Trong các xã hội theo chủ nghĩa cá nhân, mối quan hệ giữa con người tương đối lỏng lẻo, mỗi người có xu hướng chỉ quan tâm đến lợi ích của bản thân mình. Những xã hội này ưa thích tính cá nhân hơn sự đoàn kết tập thể. Cạnh tranh được đưa ra làm tiêu chuẩn để đo lường và ai cạnh tranh tốt nhất sẽ giành được phần thưởng. Các nước phương Tây như: Australia, Canada, Anh, Hoa Kỳ... là những đất nước đặc trưng theo chủ nghĩa cá nhân.
Nhật Bản đạt 46 điểm trên khía cạnh Chủ nghĩa cá nhân, đây là một con số cao hơn nhiều so với các nước xung quanh như Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam. Xã hội Nhật Bản cũng cho thấy nhiều đặc điểm của một xã hội tập thể: như sự tôn trọng với các quyết định của tập thể và khía cạnh đạo đức khi mọi người có cảm giác xấu hổ, mất mặt vì điều do một thành viên trong nhóm mình gây ra. Tuy nhiên, nó chặt chẽ như hầu hết những người hàng xóm châu Á khác. Giải thích cho điều này là xã hội Nhật Bản không có hệ thống gia đình mở rộng, tạo thành một cơ sở của các xã hội tập thể hơn. Nhật Bản đã là một xã hội gia trưởng và tên và tài sản gia đình được thừa kế từ cha cho con trai lớn nhất. Các em trai hoặc chị sẽ phải rời khỏi nhà và thành lập gia đình riêng của mình.
Người Nhật có kinh nghiệm tập thể theo tiêu chuẩn phương Tây và có kinh nghiệm cá nhân theo tiêu chuẩn châu Á. Họ riêng tư và dè dặt hơn hầu hết những người châu Á khác. chẳng hạn như gia đình mở rộng của họ và cộng đồng địa phương của họ. Người Nhật có kinh nghiệm tập thể theo tiêu chuẩn phương Tây và có kinh nghiệm cá nhân theo tiêu chuẩn châu Á. Họ riêng tư và dè dặt hơn hầu hết những người châu Á khác. chẳng hạn như gia đình mở rộng của họ và cộng đồng địa phương của họ. Người Nhật có kinh nghiệm tập thể theo tiêu chuẩn phương Tây và có kinh nghiệm cá nhân theo tiêu chuẩn châu Á. Họ riêng tư và dè dặt hơn hầu hết những người châu Á khác.
Ngược lại, trong các xã hội theo chủ nghĩa tập thể, mối quan hệ giữa các cá nhân như quan hệ ruột thịt giữa các thành viên trong gia đình, quan hệ bạn bè, đồng nghiệp... đóng vai trò quan trọng hơn trong các mong muốn của từng cá nhân. Hoạt động kinh doanh được tiến hành dựa trên cơ sở làm việc nhóm trong đó ý kiến tập thể luôn được coi trọng. Tập thể là quan trọng hơn tất cả, vì cơ bản, cuộc sống là loạt các mối quan hệ hợp tác và rành buộc lẫn nhau. Sự đoàn kết và đồng tình giúp giữ vững mối quan hệ hoà hợp trong tập thể. Các nước châu Á, đặc biệt là Đông Á như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam là những ví dụ tiêu biểu cho một xã hội theo chủ nghĩa tập thể.
Trong các xã hội cá nhân, mọi người thường tự chăm sóc bản thân và gia đình trực tiếp của mình. Trong các xã hội tập thể, mọi người có chung một nhóm mối quan hệ sẽ chăm sóc lẫn nhau để đổi lấy sự quan tâm giúp đỡ lại, hoặc các lợi ích hoặc lòng trung thành.
Việt Nam, với số điểm 20 là một xã hội tập thể. Điều này được thể hiện trong một cam kết ngầm, lâu dài chặt chẽ với nhóm tập thể mà họ tham gia, đó là một gia đình, họ hàng hoặc các mối quan hệ mở rộng như bạn bè, đồng nghiệp... Lòng trung thành trong một nền văn hóa tập thể là tối quan trọng và ghi đè lên hầu hết các quy tắc và quy định xã hội khác. Một xã hội như vậy thúc đẩy các mối quan hệ mạnh mẽ, nơi mọi người có trách nhiệm với các thành viên trong nhóm của họ. Trong các xã hội tập thể các hành vi phạm tội cá nhân cũng dẫn đến xấu hổ và mất mặt cho cả nhóm. Trong môi trường làm việc cũng thế, các cá nhân được đánh giá cả theo khía cạnh đạo đức (như liên kết gia đình), sự hòa đồng của họ với tập thể.
3. Mức độ Nam tính hay Nữ tính?
Nam tính/ Nữ tính là khái niệm chỉ một định hướng của xã hội dựa trên giá trị của nam tính và nữ tính. Xã hội có tính nam tính cao được tạo nên bởi những người đàn ông và phụ nữ quyết đoán, chú trọng đến sự nghiệp, kiếm tiền và hầu như không quan tâm đến những thứ khác. Có thể kể đến các ví dụ điển hình là Australia, Nhật Bản. Hoa Kỳ cũng là một đất nước có nam tính tương đối cao. Các nền văn hoá nói tiếng Tây Ban Nha cũng khá nam tính và thể hiện sự say mê lao động, sự táo bạo và cạnh tranh.
Điểm số cao (Nam tính cao) trên khía cạnh này cho thấy xã hội sẽ được thúc đẩy bởi sự cạnh tranh, thành tích và thành công, với thành công được xác định bởi người chiến thắng / người giỏi nhất trong lĩnh vực. Những đặc điểm của một xã hội nam tính còn bao gồm can đảm, gia trưởng, độc lập và quyết đoán. Những đặc điểm này là rất khác nhau tùy vào địa điểm cũng như tình huống, và nó chịu ảnh hưởng từ các yếu tố xã hội và văn hóa đặc thù của từng quốc gia.
Với 95 điểm, Nhật Bản là một trong những xã hội nam tính nhất trên thế giới. Các đặc điểm nổi bật về sự gia trưởng, quyết đoán và dũng cảm, sự trọng nam khinh nữ được thừa nhận rộng rãi trong xã hội. Tuy nhiên, tính nam tính này cũng được kết hợp với chủ nghĩa tập thể (thường nổi bật ở các xã hội nữ tính) của họ. Từ khi còn rất nhỏ ở trường mẫu giáo, trẻ em học cách thi đấu trong ngày thể thao cho các nhóm của mình (đội đỏ truyền thống chống lại đội trắng). Trong lao động, sự cạnh tranh mang tính tập thể rất gay gắt tại Nhật.
Trong công ty Nhật Bản, bạn thấy rằng nhân viên có động lực nhất khi họ chiến đấu trong một đội chiến thắng trước các đối thủ cạnh tranh. Những gì bạn cũng thấy là một biểu hiện của nam tính ở Nhật Bản là động lực cho sự xuất sắc và hoàn hảo trong sản xuất vật chất của họ (monodukuri) và trong các dịch vụ vật chất (khách sạn và nhà hàng) và thuyết trình (gói quà và trình bày thực phẩm) trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Nghiện công việc là một biểu hiện phổ biến khác về nam tính của người Nhật. Phụ nữ ở Nhật thường ở nhà chăm lo con cái và nhà cửa. Họ khó có thể thăng tiến trong công ty ở Nhật Bản với các tiêu chuẩn cao về nam tính, về thời gian làm việc chăm chỉ và kéo dài.
Ngược lại, trong các nền văn hoá nữ tính sẽ chú trọng hơn đến sự chăm sóc, phúc lợi, chất lượng cuộc sống, các mối quan hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau. Các nước Scandinavia, cả Nam giới và Nữ giới đều chú trọng vào việc duy trì vai trò, sự phụ thuộc và quan tâm đến những người kém may mắn hơn. Hệ thống phúc lợi phát triển cao và nhà nước thường có chế độ trợ cấp rất tốt cho giáo dục. Một xã hội nữ tính là nơi mà chất lượng cuộc sống được coi là tiêu chuẩn để đánh giá sự thành đạt.
Việt Nam đạt 40 điểm về chiều này và do đó được coi là một xã hội nữ tính. Ở các quốc gia nữ tính, trọng tâm là tập trung vào hoạt động để sống, các nhà quản lý cố gắng đồng thuận và đưa ra nhiều chính sách xã hội tốt, mọi người coi trọng sự bình đẳng, đoàn kết và chất lượng trong cuộc sống làm việc của họ. Xung đột được giải quyết bằng thỏa hiệp và đàm phán. Các ưu đãi như thời gian rảnh và tính linh hoạt được ưa chuộng. Tập trung vào hạnh phúc và hưởng thụ bên các mối quan hệ của mình.
4. Mức độ e ngại rủi ro
Sự e ngại rủi ro thể hiện mức độ mà con người có thể chấp nhận rủi ro và sự không chắc chắn trong cuộc sống của họ. Một xã hội có mức độ e ngại rủi ro cao, sẽ có nhiều tổ chức bảo hiểm để tối thiểu hoá rủi ro và đảm bảo an toàn tài chính. Các công ty tập trung tạo ra việc làm ổn định và thiết lập các quy định để điều chỉnh các hoạt động của nhân viên cũng như tối thiểu hoá sự không minh bạch. Các nhà lãnh đạo thường phải mất nhiều thời gian để ra quyết định vì phải xem xét hết mọi khả năng xảy ra rủi ro. Bỉ, Pháp và Nhật Bản là những nước có mức độ e ngại rủi ro tương đối cao.
Điểm số 92 Nhật Bản cho thấy là một trong những quốc gia có mức độ e ngại rủi do cao nhất trên trái đất. Điều này là do Nhật Bản liên tục bị đe dọa bởi thiên tai từ động đất, sóng thần, bão đến các vụ phun trào núi lửa. Nhật Bản đã học cách tự chuẩn bị cho mọi tình huống không chắc chắn, các kế hoạch khẩn cấp và biện pháp phòng ngừa không chỉ cho những thảm họa tự nhiên bất ngờ mà còn cho mọi khía cạnh khác của xã hội. Có thể nói ở Nhật Bản, bất cứ điều gì bạn làm đều được dự đoán tối đa và quy định thành các tục lệ, nghi thức bắt buộc. Cuộc sống mang tính nghi thức rất cao và bạn có rất nhiều nghi lễ. Tại đám cưới, đám tang, trong công sở, tại cuộc gặp quan trọng và các sự kiện xã hội khác, những gì mọi người mặc và cách mọi người nên cư xử được quy định rất chi tiết trong các sách xã giao.
Người Nhật thường không muốn làm những việc không có tiền lệ. Nhật Bản tốn rất nhiều thời gian và nỗ lực vào nghiên cứu tính khả thi và tất cả các yếu tố rủi ro phải được xử lý trước khi bất kỳ dự án nào có thể bắt đầu. Các nhà quản lý yêu cầu tất cả các sự kiện và số liệu chi tiết trước khi đưa ra bất kỳ quyết định nào.
Những xã hội có mức độ e ngại rủi ro thấp thường giúp các thành viên làm quen và chấp nhận sự không chắc chắn. Các nhà quản lý rất nhanh nhạy và tương đối thoải mái khi chấp nhận rủi ro nên họ ra quyết định khá nhanh. Con người chấp nhận cuộc sống mỗi ngày xảy đến và làm việc bình thường vì họ không lo lắng về tương lai. Họ có xu hưóng dung hoà được các hành động và quan điểm khác biệt so với bản thân họ vì họ không cảm thấy sợ sệt. Ấn Độ, Ireland, Jamaica và Hoa Kỳ là những ví dụ tiêu biểu nhất cho các quốc gia có mức độ e ngại rủi ro thấp.
Việt Nam đạt 30 điểm về mức độ e ngại rủi ro được đánh giá có sự bao dung, ít quy tắc và chấp nhận đổi mới đi đôi với sai sót nhiều lần hơn. Xã hội duy trì một thái độ thoải mái hơn, chấp nhận nhiều sự sai lệch so với chuẩn mực. Trong các xã hội thể hiện UAI thấp, mọi người tin rằng không nên có nhiều quy tắc hơn mức cần thiết. Lịch trình thường linh hoạt, chính xác và đúng giờ không phải là yếu tố bắt buộc. Các lý do diễn giải cho sự chậm trễ, sai sót thường dễ được chấp nhận.
5. Định hướng lâu dài
Khía cạnh định hướng dài hạn hay ngắn hạn này thể hiện mức độ con người và các tổ chức trì hoãn sự thoả mãn trong ngắn hạn để đạt được thành công trong dài hạn. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp và con người trong các nền văn hoá định hưóng dài hạn có xu hướng nhìn về lâu dài khi lập kế hoạch và cuộc sống. Họ chú trọng đến các kế hoạch cho khoảng thời gian trong nhiều năm hoặc thậm chí là nhiều thập kỉ. Khía cạnh dài hạn được thể hiện rõ nét trong các giá trị đạo đức của người châu Á, bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam...
Một phần, những giá trị này là dựa trên các học thuyết của Khổng từ, triết gia nổi tiếng người Trung Quốc sống vào khoảng năm 500 trước công nguyên. Ngoài việc đưa ra các định hướng dài hạn, Khổng Tử cũng tán thành các giá trị văn hoá cốt lõi khác mà cho đến bây giờ vẫn đang áp dụng cho nhiều nền văn hoá của châu Á. Những giá trị đó bao gồm tính kỷ luật, sự trung thành, sự siêng năng, quan tâm đến giáo dục, sự tôn trọng gia đình, chú trọng đoàn kết cộng đồng và kiểm soát ham muốn cá nhân. Học giả trên thế giới đã công nhận các giá trị này là điều làm nên sự kì diệu của Á Đông, làm nên tốc độ tăng trưởng kinh tế đáng kể và quá trình hiện đại hoá của các nước Đông Á trong suốt vài thập kỉ qua.
Nhật Bản với 88 điểm là một trong những xã hội định hướng dài hạn nhất. Cuộc sống đối với họ chỉ là một khoảnh khắc rất ngắn trong lịch sử của loài người. Bạn sống làm việc hết sức mình và đó là tất cả những gì bạn có thể làm. Nếu một người Nhật cả thấy mất định hướng, mất khả năng làm việc hoăc vô dụng đối với xã hội, họ thường tìm cách kết thúc cuộc sống của mình. Đây là lý do Nhật có số vụ tự tử cao nhất thế giới. Mọi người sống cuộc sống của họ và hướng tới đức hạnh và danh dự cao như là một phần thưởng hơn là một vị Chúa toàn năng hứa hẹn cho họ lên thiên đàng. Ở Nhật Bản, bạn thấy định hướng dài hạn về tỷ lệ đầu tư liên tục vào R&D ngay trong thời kỳ kinh tế khó khăn, ưu tiên tăng trưởng thị phần ổn định hơn là lợi nhuận hàng quý v.v. . Tất cả đều phục vụ cho độ bền của các công ty.
Việt Nam đạt 57 điểm, tuy không phải là một nền văn hóa ngắn hạn hoàn toàn nhưng cũng không quá coi trọng sự dài hạn. Nguyên nhân có thể một phần ảnh hưởng bởi các cuộc chiến tranh diễn ra liên tiếp trong lịch sử, các giá trị dài hạn chưa kịp xây dựng đã bị đập đi và xây dựng lại từ đầu khi một chế độ mới lên ngôi, điều này biến Việt Nam thành một nền văn hóa thực dụng. Trong các xã hội với định hướng thực dụng, mọi người tin rằng sự thật phụ thuộc rất nhiều vào tình huống, bối cảnh và thời gian. Chúng cho thấy khả năng thích ứng truyền thống dễ dàng cùng với các điều kiện thay đổi, xu hướng hội nhập mạnh mẽ để học hỏi phát triển trong thời gian nhanh nhất.
Ngược lại, Hoa Kỳ và hầu hết các nước phương Tây đều chú trọng đến định hướng ngắn hạn, các đích đến rõ ràng và cụ thể. Các định hướng ngắn hạn có tác dụng thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ của thế giới, đồng nghĩa với việc bất chấp các rủi ro về lâu dài, sự tàn phá, hủy hoại về môi trường. Văn hóa đề cao thành tích và chủ nghĩa cá nhân cũng là nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ ly hôn cao, ngại sinh con và suy thoái dân số diễn ra mạnh mẽ ở các nước phương Tây.
6. Sự tự do cá nhân
Những người sống trong môi trường có văn hóa tự do cá nhân cao (như phương Tây) sẽ luôn chủ động làm những gì mình thích, đôi khi việc đó vượt quá tầm kiểm soát của bản thân. Bên cạnh đó, văn hóa tự do cũng cho mỗi cá nhân tự do toàn quyền trong các quyết định mà không phải chịu sự kiểm soát quá nhiều của hệ thống quy tắc và mối quan hệ. Họ có xu hướng hưởng thụ thành quả một mình (ăn uống, du lịch, mua sắm...) hơn là đi chung với một tập thể hoặc gia đình.
Ngược lại, các xã hội có đặc điểm văn hóa cá nhân kiềm chế hay có giới hạn (Restrained) thường có sự hoài nghi, đắn đo, lo lắng trong các quyết định và hành động. Trong xã hội này mọi người thường không chú trọng nhiều đến giải trí, hưởng thụ để thỏa mãn cá nhân mà gắn nó với các tập thể, mối quan hệ xung quanh. Những cá nhân sống trong xã hội hạn chế sẽ chấp nhận các hành động của mình bị giới hạn bởi những quy tắc và quan hệ. Văn hóa giới hạn bởi các yếu tố đạo đức, sự đánh giá của cộng đồng và truyền thống lịch sử lâu đời tiêu biểu nhất ở các nước đông Á như Trung Quốc, Hàn Quốc,Việt Nam.
Nhật Bản, với số điểm 42 và Việt Nam với 35 điểm đều thuộc nhóm các nước có đặc điểm văn hóa kiềm chế. Tuy nhiên, Nhật bản có xu hướng thoáng hơn do tiếp thu sâu rộng văn hóa của phương Tây trong nhiều thập kỷ. Việt Nam thì do ảnh hưởng trực tiếp của Trung Quốc và các nền văn hóa dựa trên nông nghiệp đề cao tính gia đình và cộng đồng xung quanh. Các nhu cầu về hưởng thụ cá nhân cũng bị phụ thuộc vào các mối quan hệ và đạo đức truyền thống rất nhiều. Tiêu biểu nhất có thể thấy các hoạt động giải trí mang tính cộng đồng phát triển rất mạnh. Các hình thức ăn mừng tiệc tùng, giải trí cá nhân thường được mở rộng ra rất nhiều ra bạn bè, gia đình, đồng nghiệp xung quanh.
Kết
Trên đây là bài viết so sánh 6 yếu tố trong văn hóa đặc trưng quốc gia giữa Nhật Bản và Việt Nam. Bài viết cũng cho thấy tuy có nhiều tương dồng về mặt địa lý, diện tích, dân số, cũng như có truyền thống văn hóa phong phú và chịu nhiều ảnh hưởng từ cái nôi văn hóa lớn Trung Quốc làng giềng nhưng mỗi quốc gia lại có những nét đặc trưng riêng cũng như hội nhập tiếp thu văn hóa phương Tây khác nhau. Các mối quan hệ hợp tác, làm việc của hai bên phải dựa trên sự thấu hiểu và ứng xử phù hợp với văn hóa mỗi nước, khai thác các điểm mạnh cũng như dung hòa hoặc khắc phục những mặt còn hạn chế. GrowUpWork hy vọng bài viết sẽ đem lại những thông tin hữu ích cho bạn. Chúc bạn thành công!
Tin tức liên quan
Con người Nhật Bản - Những điều hay nên học tập!
Vì sao tiếng Anh không được chào đón ở Nhật
Chuyển đổi VISA DU HỌC SINH sang VISA LAO ĐỘNG tại Nhật
So sánh văn hóa quốc gia giữa Việt Nam và Nhật Bản